Truyện Ngắn, nàng tiên mờ ảo
gần mà xa, xa mà gần đối với nhà
văn
Nguyễn
Văn Sâm
Ai đă từng đọc
sách, không cần phải là nhà văn, thế nào cũng biết
phân biệt được đâu là truyện ngắn, đâu
là truyện dài khi nh́n sơ qua một tác phẩm. Thế nhưng
bảo chính ngay nhà văn phát biểu cho biết truyện ngắn là ǵ, ta sẽ
được những câu trả lời không rơ nét, thậm
chí c̣n thay đổi rất khác biệt theo từng tác giả.
Tại sao vậy? Bởi
v́ truyện ngắn là đứa con sinh sau đẻ muộn
so với các dạng khác của văn chương. Ở
Âu Châu kịch - thơ - truyện dài - xuất hiện rất
lâu rồi mới tới truyện ngắn trong ṿng hai
trăm năm nay, hiện tại nó vẫn chưa ở trạng
thái định h́nh, mỗi nhà văn, trên mặt chi tiết,
quan niệm và viết truyện ngắn theo cách thế của
riêng ḿnh dầu trên tổng thể họ có những điểm
chung phổ quát.
Nhà văn Phạm
Duy Tốn (Paris 1922)
Ở Việt Nam, truyện
ngắn viết bằng quốc ngữ tuy chỉ mới
xuất hiện hồi đầu thế kỷ nhưng đă
đi hia bảy đặm trên con đường mới tạo
lập thênh thang của nó. Các truyện ngắn Việt Nam
khoảng bốn mươi năm trở lại đây có
giá trị nghệ thuật và tư tưởng không thua ǵ
các truyện lừng danh ở những xứ đă có truyền
thống truyện ngắn lâu đời. Một trong những
truyện nổi tiếng c̣n sót lại của thời ban
đầu là truyện ngắn rất gợi cảm "Câu Chuyện Một Tối Tân Hôn"
của Phạm Duy Tốn, rơ ràng trong điều cần được
tŕnh bày; kỹ thuật dựng truyện và cách sắp xếp
điều cần thiết của một truyện ngắn
theo cách thế của các truyện ngắn Pháp chớ không
bắt nguồn từ truyện ngắn Việt Nam (viết
bằng chữ Nôm hay chữ Hán trước đó) như Truyền Kỳ Mạn Lục Giải
Âm", chữ Nôm thế kỷ XVII, hay "Lĩnh Nam Chích Quái" của
Trần Thế Pháp" hoặc "Việt Điện U Linh" của Lư Tế
Xuyên, chữ Hán, thế kỷ XIV. Với loại viết bằng
chữ Nôm th́ câu văn khó hiểu, kết cấu truyện
lượm thượm và c̣n đang ở trong h́nh thức
truyện kể. Với loại viết bằng chữ Hán
th́ người đọc không thấy được tính
chất thời đại cũng như đặc tính của
ngôn ngữ Việt trong đó v́ khi thực hiện các tập
này, tác giả chỉ thuần nhắm phần thâu thập
các truyện cổ truyền trong dân gian, phần sáng tác cá
nhân của tác giả và phần văn chương không
được coi là quan trọng, khác với trường
hợp tương tự của Sir Walter Scott ở Anh và
Washington Irving ở Mỹ sau nầy đă dùng kho tàng truyện
kể dân gian làm chất liệu cho các truyện ngắn của
ḿnh.
Một vài nhà văn
Việt thời chữ Nôm có sáng tác loại truyện kể
nặng tính chất truyền kỳ -- một h́nh thức
truyện ngắn tương đối gần với dạng
phôi thai của truyện ngắn ngày nay -- như Đoàn Thị
Điểm, với sáu truyện trong tập "Truyền Kỳ Tân Phả",
như Cao Bá Quát với mười truyện trong văn cảo
của ông. Các truyện này cho tới ngày nay vẫn chưa
có điều kiện để được lưu hành
rộng răi cho nên không có ảnh hưởng trong đời
sống văn học cũng như h́nh thức văn
chương.
Nh́n chung các mặt
ngôn ngữ, không khí cũng như h́nh thức, các truyện
ngắn cũ đều khác xa với truyện ngắn gần
đây. Nói cách khác, ở Âu Mỹ truyện ngắn tuy mới
xuất hiện chỉ hai thế kỷ nhưng truyền
thống truyện ngắn của họ cũng đă
được hai trăm năm trong khi ở Việt Nam
truyện ngắn xuất hiện cả bốn năm
trăm nay nhưng mới chỉ có truyền thống truyện
ngắn như chúng ta có theo khái niệm ngày nay từ thập niên ba mươi của
thế kỷ nầy.
Trong khi đó truyện
dài Việt Nam đă xuất hiện và rất phong phú
trước thời gian có h́nh thức truyện dài hiện
đại khá lâu, dưới dạng truyện thơ Nôm
như Trê Cóc, Phan Trần, Hoa Tiên, Nhị Độ Mai, Đoạn
Trường Tân Thanh... hay dưới dạng một chuỗi
nhiều bài thơ (người bên nhà gọi là một chùm
(!) thơ) diễn tả một câu chuyện như thơ Vương Tường, Bạch Viên Tôn Các. Ở
đây ngôn ngữ dùng rất gần với ngôn ngữ hiện
đại. Sự kiện lại diễn thành một câu
chuyện có đầu đuôi, ư nghĩa.
Thêm vào đó, trong dân
gian, lại có vô số truyện thơ. Có thể nói dân tộc
Việt Nam đă thấm nhuần không khí truyện dài từ
lâu. Ta không có truyền thống truyện dài viết bằng
chữ Hán. (Cuốn "Lĩnh
Nam Dật Sử" trước đây một nhân vật
túng tiền chép lại một truyện dài tầm thường
của đời Thanh bán cho trường Viễn Đông
Bác Cổ thác là truyện dài Việt Nam xưa viết bằng
tiếng Mường, tác giả là Ma Văn Cao, anh hùng Trần
Nhật Duật đời Trần dịch ra chữ Hán, sự
giả trá đó trong văn chương cần phải
được quên đi, không nên nhắc đến nữa).
Cuốn "Hoàng Lê Nhất Thống Chí"
của nhóm Ngô Gia văn phái
viết theo lối Tam Quốc
Chí là một cuốn truyện dài lịch sử khá đặc
biệt trong văn chương Việt, nhưng tiếc
thay một con én lạc loài không tạo được mùa
Xuân truyện dài chữ Hán mà chỉ tạo được
mùa Xuân truyện dài lịch sử viết bằng quốc
ngữ ở các trường hợp Tân Dân Tử Nguyễn
Hữu Ngỡi trong Nam, Nguyễn Triệu Luật, Lan Khai,
Tchya ở Bắc sau nầy...
Dầu sao truyện
dài Việt Nam cũng phát sinh từ truyền thống truyện
dài Nôm và ít ra cũng từ thế kỷ XIV. Nhờ đó
khi chữ quốc ngữ bắt đầu ổn định
trong Nam, Nguyễn Trọng Quản có "Truyện Thầy Lazaro Phiền" 1887 đặt
bước chân đầu tiên vào lănh vực truyện dài mới
vào thập niên thứ nh́ của thế kỷ này, truyện
dài "Chăng Cà Mum"
1910 của Nguyễn Chánh Sắt, Hoàng Tố Anh Hàm Oan 1910 của Trần Chánh Chiếu,
Phan Yên Ngoại Sử 1910 của
Phan Duy Toản đă vang dội một thời. Ngoài Bắc,
những cuốn Tố Tâm, Nho
Phong, Người Quay Tơ sau đó góp phần xây dựng
những bước tiến vững chăi cho nền văn học
Việt Nam. Ngay đến tinh thần coi trọng truyện
dài của người viết và câu nói thường lập
lại trong giới cầm bút "nhà văn chưa phải là nhà văn nếu chưa
viết được truyện dài" cũng có nguồn
gốc từ ḍng lịch sử lâu đời của truyện
dài Việt.
Sinh muộn, vốn
chưa định h́nh rơ rệt nên tùy theo quan điểm từng
người viết, khái niệm truyện ngắn biến thiên. Dầu sao trước
một truyện ngắn ai cũng đều có thể vạch
mặt chỉ tên đó là một truyện ngắn nhờ
căn cứ một vài điểm hiển nhiên nào đó. Những
điểm chung đó nằm trên mặt h́nh thức,
như độ dài ngắn, sự liên hệ của những
sự kiện được tŕnh bày. Cho đến ngày nay
quan niệm truyện ngắn đă khác với lúc nó mới
phát sinh. Nhiều người đồng ư như cái tên của
nó, đó là một sáng tác phẩm ngắn kể lại một
câu chuyện, một mảnh vụn đặc biệt của
đời sống, hoặc -- như quan niệm mới gần
đây -- chỉ là một tâm trạng không cần thành truyện,
không cần đầu đuôi, không nhất thiết phải
theo thứ tự thời gian.
Nhưng ngắn đến
thế nào, chữ này thiệt là tương đối. Có
nhà giáo, ông X.J. Kennedy, trong quyển sách giáo khoa Literature
thường dùng ở năm đầu của văn
chương Anh Mỹ trong các trường đại học
Mỹ nhắc đến một truyện ngắn của
Thomas Bailey Aldrich chỉ dài độc có ba ḍng:
"Một thiếu phụ
đang ngồi trong căn nhà cũ kỹ, đóng kín, biết
rằng chỉ có ḿnh ḿnh trơ trọi trên thế giới
này. Tất cả đều đă bị tiêu hủy.
Chuông cửa reo".
Ít người đồng
ư với ông giáo sư nọ để coi đây là một
truyện ngắn. Không có truyện trong đó mà chỉ là một
mảnh đời. Cũng được đi, nhưng cả
truyện nh́n chung không "nói"
được điều ǵ mặc dầu ta có thể
tưởng tượng được vài điều về
hoàn cảnh và tâm trạng của thiếu phụ đó. Ngắn
quá, truyện không thể hội đủ những yếu
tính cấu thành nó, không thể thực hiện được
nhiệm vụ tương thông giữa người đọc
và người viết, yếu tính căn bản của
sáng tạo phẩm. Nguyên tử không thể là vật chất,
một tế bào của con người không thể là con
người. Truyện cũng vậy, phải dài ở mức
độ tối thiểu nào đó, dưới mức
đó, sẽ bị biến thể thành một thứ ǵ
khác. Truyện ngăn ngắn của Việt Nam do các
người viết có chút tên tuổi thường là bốn
trang (khổ sách hay tạp chí Văn, Văn Học) ngắn
quá, chỉ được viết bởi người mới
vô nghề, chưa đủ dài hơi, chưa đủ sức
phân tích những đoạn cần khai triển.
Người Mỹ có
những truyện cụt gọi là short short story, (tôi không
muốn dùng chữ truyện ngắn ngắn) trong tuyển
tập kiểu này ta gặp rất nhiều truyện
chưa dài tới hai trang, mặc dầu viết bởi các
cây bút có tên tuổi, Ernest Hemingway chẳng hạn.
Những loại này
chưa được xếp vào thể loại văn
chương thật sự, ít nhất là trong những sách
giáo khoa hay các tuyển tập có giá trị v́ không đủ
yếu tố đem đến thú vị cho người
đọc.
Các truyện dài khoảng
ba, bốn trang được kể là truyện hay
được chọn trong tuyển truyện quốc tế
có quá nhiều. Chẳng hạn: "Bức Thư Gửi Cho Thượng Đế"
(A Letter To God) của nhà văn Mễ Tây Cơ Gregorio Lopez Y
Fuentes đăng trong "Great
Short Story of The World" tuyển bởi The Reader's Degest -
1974. Truyện kể về anh nông dân Lencho, quá nghèo, năm nọ
bị nạn hạn hán, gia đ́nh sắp chết đói,
viết thư gởi lên Thượng Đế xin
được cứu giúp. Một nhân viên bưu điện
thấy thơ, xúc động bàn với các đồng sự
cứu giúp bằng cách cùng nhau góp tiền. Ác thay họ chỉ
góp được có bảy chục pesos thay v́ một
trăm như Lencho xin. Nhận được tiền,
Lencho tức giận viết thêm một bức thơ nữa:
"Thưa Thượng Đế, về chuyện tiền
con xin Ngài giúp đỡ, con chỉ nhận được
có bảy chục pesos. Xin Ngày gửi đến con số
c̣n lại, con rất cần. Xin Ngài chớ gởi qua
đường bưu điện v́ nhân viên bưu điện
là một bọn ăn chận".
Truyện chấm dứt
ở đó. Tác giả bỏ lửng làm cho truyện mở
ra nhiều chiều hướng từ khôi hài - tôi từng
thấy người ta mượn ư này viết thành chuyện
cười - niềm tin ở khả năng siêu việt của
Thượng Đế có thể tác động lên cuộc
đời này, đến cái giá phải trả của
người thi ơn, đời sống khốn khổ,
thất học của nông dân... mà ta vẫn không hiểu
được chính ư của tác giả.
Vậy th́ viết ngắn,
bỏ lửng, không nói hết cũng có cái lợi của
nó! Cái lợi ở chỗ gợi lên những vấn đề
mà tác giả khỏi mất công đi sâu. Tuy nhiên cho tới
bây giờ chưa ai chấp nhận truyện ngắn cụt
có tuyệt phẩm mặc dầu người ta công nhận
có truyện ngắn cụt và các tuyển tập về loại
nầy hiện nay không phải là ít. "Kẻ Theo Đuổi" (The Chaser) của John
Collier, trích đăng trong quyền IV của bộ sáu cuốn
dạy văn chương Anh do Trung Tâm Nghiên Cứu Học
Tŕnh Oregon (The Oregon Curriculum; A Sequential program in English) thực
hiện cũng ở vào loại đó, ngắn và mở rộng.
Cậu Alan Austen đến
một lăo già chuyên bán nước đặc biệt để
mua "nước yêu"
v́ cậu đang yêu cô Diana và muốn chiếm cảm t́nh của
cô ta. Trong cuộc đối thoại lăo bán nước nói nhiều
điều làm cho người đọc suy nghĩ: "nước tẩy của đời
sống (life cleaner) giá năm ngàn đồng, nước
yêu (love lotion) th́ không vậy. Người trai trẻ cần
nước yêu th́ rất ít khi có năm ngàn. Nếu có
năm ngàn th́ đâu có cần nước yêu... nước
yêu th́ một đồng thôi... Tôi thích phục vụ khách
hàng, rồi khách hàng sẽ trở lại khi họ khá
hơn và cần những thứ mắc tiền
hơn".
Tác giả kết thúc
truyện ngắn của ḿnh bằng câu chào tạm biệt
của ông lăo bán nước yêu khiến ta thắc mắc về
chiều hướng mở ra của truyện: Người
yêu hôm nay ngày mai giận ghét? Alan Austen có thể sẽ trở
lại sau này v́ cần thứ mắc tiền để
thanh toán Diana? Không biết. Hay anh ta trở lại để
mua nước yêu nữa để săn đuổi một
Diana khác? Có thể lắm.
Vậy truyện ngắn
dầu ở trạng thái ngắn tối thiểu cũng
phải mở được những chân trời mới
cho người đọc, nếu người viết biết
mở ra chân trời đó.
Việt Nam cũng có
những truyện ngắn cỡ này, cũng là những truyện
có giá trị đầy đủ, và có khả năng mở
ra những chân trời mới suy tư cho độc giả.
"Vệt son" và "Thế
giới của Kathy Graham" trong tập Ngọn Hải Đăng Mù của
Mai Thảo. "Thư Quê
Hương" trong tập Xuôi
Ḍng của Nguyễn Mộng Giác là những thí dụ
điển h́nh.
Ngắn th́ vậy,
khoảng ba, bốn trang. Nhưng dài bao nhiêu mới không bị
coi như truyện dài? Ở Việt nam chỉ có truyện
dài quá ngắn chứ không có truyện ngắn quá dài. Truyện
ngắn "Thác Đổ Sau
Nhà" trước năm bảy mươi lăm của
Vơ Phiến (in trong tập truyện ngắn I- Văn Nghệ)
dài bốn mươi bốn trang. Hầu hết những
truyện khác dài cỡ này như các truyện của Mai Kim
Ngọc trong "Muôn Kiếp Cô
Liêu", "Rồi Sau? Niềm
Tin Mới", của J. Ngọc (Trong tập truyện
cùng tên, xuất bản ở Houston - 1987) "Nụ cười Tre Trúc"
của Kiệt Tấn, đều là những truyện dài
hụt hơi, truyện vừa, chớ không phải là truyện
ngắn dài.
Văn chương thế
giới chấp nhận một vài truyện ngắn dài
như "Cái Chết Của
Lăo Ivan Ilych" của Leo Tolstoi dài bốn mươi
trang chữ nhỏ. Truyện "The Heart Of Darkness"
của Gustave Flaubert dài năm mươi hai trang chữ nhỏ.
Đếm chữ sợ c̣n nhiều hơn truyện dài Bonjour Tristesse của F. Sagan nổi
tiếng một thời trước đây. Cũng vậy
truyện "Man In The Drawer"
của Bernard Malamud dài 46 trang, đọc mà ngán ngẩm khi
đầu óc đă quen thuộc với truyện ngắn
khoảng hai mươi trang trở lại. Trong khi đó
các truyện khác, dài dưới cỡ này hầu hết
đều được xếp vào loại truyện vừa
(novella). Truyện Neighbour Rosicky của bà Willa Cather, người
chuyên viết những điều càng ngày càng biến mất
trên quê hương ḿnh, chẳng hạn: in khoảng hai
mươi lăm trang chữ nhỏ thế mà các tác giả
cuốn "Question And Form In
Literature" trong bộ Medaillon Edition-America Reader xếp
vào truyện vừa.
Ở Việt Nam, khái
niệm truyện vừa ít được để ư v́ loại
này đều bị xếp vào chung với truyện ngắn.
Nhà văn B́nh Nguyên Lộc dường như là người
đầu tiên dùng chữ truyện vừa để chỉ
khái niệm novella, một thứ truyện phát xuất ở
Nga, dài nhưng được viết sao cho in vừa đủ
một kỳ báo của các loại tạp chí hồi thế
kỷ XIX ở Mạc Tư Khoa.
Vậy th́ truyện
ngắn không được dài quá, cũng không được
ngắn quá. Từ ba, bốn trang tới bốn, năm,
mươi trang là vừa. Người Mỹ tính chữ nói
là từ vài ngàn chữ tới năm, sáu chục ngàn chữ.
Ở Việt Nam, trước 1954 hầu hết chuyện
dài đều vào khoảng một trăm trang chữ, lớn
lại in thưa, nếu xếp chữ như ngày nay, chỉ
c̣n độ bốn năm chục trang. Truyện "Hồn Bướm Mơ Tiên"
của Khái Hưng, truyện "Bạc Xiu Ĺn" của Vũ Anh Khanh là những
thí dụ, với quan điểm ngày nay, ta dễ dàng nói
đó là một truyện ngắn dài hơi như các truyện
của Vơ Phiến trước đây.
Vậy th́ quan niệm
truyện dài, truyện ngắn không phải chỉ thuần
túy nằm ở chỗ giới hạn số trang của
truyện mà đ̣i hỏi thêm một yếu tố khác,
đó là cách nói đến
điều được nói trong truyện. Giở một
hai cuốn truyện dài mà giá trị không c̣n ai đặt
thành vấn đề nữa, đă trở thành tác phẩm
cổ điển như: "Chiến
Tranh và Ḥa B́nh" của Leo Tolstoi hay "Kiếp Người" (Of Human
Bondage) của Somerset Maugham ta thấy tác
giả tả tỉ mỉ, chi tiết, có thể nói là
đụng ǵ viết nấy. Chỗ này, gia đ́nh này
được giới thiệu chi ly. Địa điểm
khác, nhân vật khác cũng xuất hiện với đầy
đủ chi tiết, không cần những người này
có một sự liên hệ chặt chẽ về những
diễn biến của câu chuyện.
Truyện dài hiện
diện quá điều cần
thiết, với những tẳn mẳn tỉ mỷ thừa
thăi của nó. Truyện dài bắt chụp đời sống
như một ống kính quay phim kéo lê đi khắp nơi,
gặp ǵ thu nấy, hào phóng không rích róng trong sự lựa
chọn. Truyện ngắn trái lại, nhân vật đă rất
ít lại liên quan với nhau, sự kiện cùng nhau chằng
chịt buộc ràng: không gian, thời gian thường cô,
quánh lại chớ ít khi mở rộng.
Suy nghĩ và hành động
của nhân vật cũng chỉ được giới hạn
để diễn tả một hai điều tác giả
muốn; những điều khác bị hy sinh tối
đa. Hiện tượng nhiều chủ đề trong
một truyện ngắn thường bị coi như yếu
tố đem đến sự thất bại của truyện
v́ tính chất mông lung của nó, khác với truyện dài,
tính chất đa-trọng-tâm thường được
coi như phong phú, sâu sắc.Chúng ta có thể ví một bàn cờ
tướng, cờ tây với một truyện dài: truyện
ngắn chỉ giống như một bàn tíc-tắc-toe, một
bàn cờ chó, hoặc nhiều nhứt là một bàn cờ mụ,
cờ gánh. Đứng trước một cảnh thiên
nhiên hùng vĩ, bốn bề núi non rừng rậm, ao đầm,
nh́n mọi thứ một chút đó là công việc của
người viết truyện dài. Chú mục vào một cảnh
nhỏ, một chóp núi với tuyết phủ trắng bạc
trên đỉnh, vào vài căn nhà lộng lẫy bên sườn,
vào một ḍng suối trong có đá cuội trong lành đó là
công việc của người viết truyện ngắn.
Dĩ nhiên có người chỉ quan sát một vùng tuyết
để thấy rơ hơn một vài cây thông bị khuất
lấp, vài ḥn đá như cố vươn ḿnh lên trên tuyết;
hay chỉ chú trọng đến những ǵ xảy ra trong
một căn pḥng của gian nhà nhỏ, hoặc một
khúc suối có cô sơn nữ vọc nước, nô
đùa....Một bức địa đồ chi tiết với
đường sá, sông ng̣i nước non sông biển của
tiểu bang là truyện dài. Một ô vuông nhỏ về một
thành phố với lời chú "xem chi tiết ở phía sau", chi tiết phía sau
đó là truyện ngắn.
Ta đi đến một
tính chất nữa cũng thuộc phần h́nh thức của
truyện ngắn, đó là các sự kiện được
mô tả cần phải cô động trong chi tiết và
liên quan chặt chẽ với nhau. Các nhà văn có cách diễn
tả đặc biệt về tính chất "chi tiết cô đọng và liên
quan nhau" của truyện ngắn.
Nhà văn Mặc
Đỗ cho rằng "truyện
ngắn là một truyện dài đúc lại chung quanh một
t́nh tiết, một động tác chính. Truyện ngắn gần
với kịch". Khi nhắc đến kịch, Mặc
Đỗ muốn nhắc đến kịch Hy Lạp hay
ít ra cũng là kịch ở Âu Châu trước thế kỷ
XVIII với những luật lệ về đồng nhất
động tác, thời gian và không gian, nghĩa là truyện
ngắn không được dài ḍng, kỵ miên man mà chỉ
xoáy trục quanh một nét chính.
Nhà văn Nguyễn
Nghiệp Nhượng, phát biểu có vẻ Tây
Phương hơn nhưng cụ thể hơn: "Truyện ngắn giống như
một sự soi sáng tập trung".
Nhà văn Nguyễn
Đông Ngạc cũng một ư đó: "V́ là truyện ngắn nên t́nh tiết ư tưởng phải
thật chọn lọc và có tính chất quyết định
hơn (thơ, truyện dài). Truyện ngắn gần giống
như thơ Đường về nội dung". Nhắc
đến thơ Đường, Nguyễn Đông Ngạc
muốn nói về tính chất cô động ít lời, chi tiết
được chọn lọc để phục vụ cho
"đề" của
loại này.
Những nhà văn tên
tuổi khác nói cách này, cách kia nhưng đại khái cũng
tương tợ. Âu Mỹ cũng không nói ǵ mới
hơn. Ta có thể đi đến một định
nghĩa dễ hiểu "Truyện
ngắn là một sáng tác nghệ thuật có tính cách cô đọng,
kết hợp giữa cốt truyện, nhân vật, diễn
tiến, để diễn tả hoàn chỉnh một
điều cần diễn tả, không dư cũng không
thiếu." Thiếu, truyện trở thành lỏng chỏng,
mất cân bằng và tối tăm; dư, truyện sẽ
nhạt, dài ḍng, rườm rà nhiều lời ít ư, làm nản
ḷng độc giả khi cố gắng đi cho hết
truyện.
Nhà văn Doăn Quốc
Sỹ gọi định luật không được
dư thừa của truyện ngắn là tính chất không có chi tiết tràn bờ,
không có chi tiết tràn bờ cũng chỉ là một cách nói
khác về tính nhất quán của truyện ngắn.
Nữ văn sĩ
Nadine Gordiner của Nam Phi nhắc đến tính cách nhất
thống vấn đề của truyện ngắn khi bà
nói trong bài tựa tuyển tập truyện ngắn của
ḿnh: "truyện ngắn
được tạo thành bởi một vấn đề
ǵ nhà văn có thể nắm, bắt được hoàn
toàn ngay tức khắc trong trí tưởng tượng của
ḿnh" trong khi đó đối với truyện dài
điều này phải thực hiện từng bước
một. Do đó bà cho rằng khi đă có ư tưởng rồi
th́ không có sự lựa chọn h́nh thức dài ngắn nữa.
Ư tưởng đă quyết định rồi. Truyện
ngắn hiện ra tức thời.
Thường thường
truyện ngắn xoay chung quanh một câu chuyện chính, xảy
ra trong một thời gian ngắn do một, hai nhân vật
chánh. Nếu tác giả chú trọng trên một mặt nào
đó, ông ta sẽ tŕnh bày yếu tố đó thật chi tiết
và giữ lại thật là tối thiểu những yếu
tố khác. Nên nhớ tác giả hy sinh một số chi tiết
thấy không ích lợi cho toàn thể tác phẩm chớ
không phải ông không biết những chi tiết chưa
được viết ra đó.
Trong truyện ngắn
nhân vật đặt biệt được làm nổi bật
bằng hành động, ngôn ngữ, suy tưởng của
anh ta và của cả nhân vật phản diện nữa. Phải
quan sát thật nhiều về con người, phải thấy
được phần điển h́nh nhân vật mà ḿnh muốn
tả và loại bỏ đi những thứ khác mới có
những nhân vật đặc biệt và tác
phẩm mới có
cơ hội sống theo thời gian. Trong "Một Bông Hồng Cho Emily"
của W. Faulkner cô Emily ương ngạnh không thèm tiếp
chuyện với bất cứ ai được gởi
đến để nói chuyện thuế má với ḿnh.
Trong "Tiếng Thầm Quê Mẹ"
của Nguyễn văn Sâm, thằng Mỹ ương ngạnh,
ngang tàng cướp giật nhưng lời nói và cử chỉ
của nó cho biết bên trong con người của nó. Trong “Thác Đổ Sau nhà” của Vơ
Phiến, Quận Toàn bằng cách nói chuyện của ông ta
với những đặc ngữ, bọn thợ săn
chúng tôi "với vỗ vỗ
tự tin vào bên trong vế của người thiếu phụ".
. . .
Một nhà văn nào
đó nói, tất cả mọi sản xuất đều
có chất phế thải. Công việc của nhà văn
cũng vậy, phải quan sát thật nhiều nhưng cô
đọng lại và phế thải phần lớn, phần
c̣n lại để sử dụng rất ít so với phần
đă được vất đi. Nếu không biết cô
đọng, không biết phế thải nhà văn sẽ trở
thành một người ngồi lê đôi mách và một truyện
ngắn sẽ thành truyện dài hụt hơi, một truyện
dài sẽ thành truyện đầu Ngô ḿnh Sở, đại
cà sa, không đâu vô đâu.
Nhưng trong định
nghĩa vừa nêu trên chữ "một sáng tác nghệ thuật" cũng là chữ
đặt ra nhiều vấn đề. Có những sáng tác
được viết ra đọc lên thấy hứng
thú, nao nao, thống khoái, đă
điếu, thỉnh thoảng ta thích đọc lại,
càng đọc lại càng thấy chiếu sáng, càng khám phá
thêm điều mới; những điều tác giả viết
làm phong phú tâm hồn ta, thay đổi ta, làm giàu kiến thức
ta, phong phú đời ta, ít nhứt là trong thời khoản
thưởng thức tác phẩm.
Có những sáng tác tuy
có thể tạo cho ta nụ cười cuối truyện,
hay một chút thích thú nào đó -- do câu chuyện mang lại
-- nhưng lại thuộc loại đọc xong rồi bỏ,
không thể đọc lại v́ đọc lại ḷng ta sẽ
dửng dưng.
Nghệ thuật của
truyện ngắn như vậy nằm ở đâu? Đó
là câu trả lời cần nhiều suy nghĩ. V́ chính những
người viết, người sưu tuyển truyện
ngắn lẫy lừng như Sir Victor Pritchet c̣n nói rằng
sự lựa chọn của ḿnh tùy theo sở thích riêng, có
tính cách rất cá nhân và truyện ngắn là một loại
nghệ thuật tuyệt đối khó khăn.
Kết thúc quyển
sách giới thiệu tiểu thuyết Mỹ, cuốn "Cavalcade of the American Novel",
ông Edward Wagenknecht cho rằng những nhà phê b́nh Mỹ khó quyết
định đúng đắn những cuốn sách nào nên
được nói đến và những cuốn nào nên bỏ
qua trong im lặng, để trôi vào lăng quên của con số
quá lớn sách vỡ xuất bản mỗi năm không ai có
thể đọc hết. Rồi ông nhận định rằng
thông thường, ngày nay ở Mỹ người điểm
sách đă hoàn toàn dửng dưng với văn chương
như một thứ nghệ thuật mà chú trọng đến
những quyển sách phản ảnh các bộ mặt của
đời sống Mỹ và cuốn nào càng biểu lộ
được "bộ mặt"
đó th́ càng có cơ hội được chú ư đến.
Đi xa hơn trong việc
t́m nguyên do của sự chú ư, ông Wagenknecht thấy rằng
những người viết văn càng viết về những
điều không biết xấu hổ th́ càng dễ
được chú ư... Điều nhận xét này không những
đúng cho tiểu thuyết nói chung ở Mỹ mà c̣n áp dụng
được cho nhiều nước khác chớ không riêng
ǵ Mỹ và ở trong các bộ môn. Với một xă hội
bận rộn và mọi thứ đă trở thành mục
tiêu cho thương mại th́ sự phân cách lớn lao giữa
tác phẩm được chú ư và tác phẩm nghệ thuật
đương nhiên phải có.
Cuốn sách phù hợp
với sở thích của thời điểm chớ không
là một tác phẩm có nghệ thuật văn chương
sẽ được chú ư.
Nói sở thích là nói
đến sự ưa chuộng v́ thiếu thốn, v́ trọng
vọng hay v́ ảnh hưởng của môi trường
chung quanh. Và khi điều làm cho người đọc
ưa thích mất đi th́ sở thích của giai đoạn
cũng mất. Tác phẩm là sở thích của giai đoạn
họa hoằn lắm mới sống qua giai đoạn kế
tiếp. Sự phụ t́nh của thời gian trong trường
hợp này được gọi là sự chọn lọc của
thời gian. Sở thích của những người ngày nay
ở vào lứa tuổi 50, thuở nhỏ là Long H́nh Quái Khách, là Châu Về Hiệp Phố, là Cô Bạch Mai (của Nam
Đ́nh) là Gia Long Tẩu Quốc,
Vơ Đông Sơ Bạch Thu Hà (Tân Dân Tử) là Thần Hổ, Ai Hát Giữa Rừng
Khuya (Tchya), là Bàn Tay Máu, Con
Tàu Máu (Phi Long), là Hồng và
Cúc, Rừng Thẩm Bể Khơi (Ngọc Sơn).
Một thời ở
Sàig̣n có cái sở thích đọc Yêu,
Tiền, Loạn (Chu Tử), Ṿng
Tay Học Tṛ (Nguyễn Thị Hoàng) và bây giờ ở hải
ngoại những tác phẩm được bán chạy là
những cuốn được thuật lại đời
sống trong trại cải tạo, những ngày chót của
Việt Nam Cộng Ḥa, chuyện mấy chú bộ đội
ngu ngơ nhưng ác độc...
V́ truyện ngắn
chỉ đủ chỗ chứa đựng được
ít nội dung, chất liệu để diễn tả nội
dung đó cũng rất giới hạn nên khi chất liệu
không c̣n thích hợp với thời đại nữa th́
truyện ngắn đó dù đă có một thời được
coi là xuất sắc vẫn không thể tồn tại. Ông
Clifton Fadiman, một người làm tuyển tập truyện
ngắn Mỹ cho rằng các tác giả danh tiếng trước
đây như Sherwood Anderson, Erstine Caldwell, Walter de la Mare của
truyện ngắn Mỹ không c̣n được nhắc
đến nữa và có thể độ 50 năm sau thôi hai
văn tài hiện đại Mỹ là Trevor và John Updike
cũng sẽ bị lăng quên. Truyện ngắn chống chỏi
được với thời gian như The Dead (James Joyce), The
Simple Heart, (Gustave Flaubert) Cái
chết của Ivan IIych (Dostoivesky) thiệt là quá ít. Truyện
ngắn hay của của Việt Nam càng bị đào thải
mau hơn v́ xă hội Việt Nam thay đổi quá nhanh. Biết
bao nhiêu điều mới đây là tân thời đă trở
thành h́nh bóng cũ. Truyện ngắn Anh Phải Sống của Nhất Linh đă không
c̣n giá trị thưởng thức nữa, các truyện của
Nguyễn Công Hoan (Bước
Đường Cùng) của Lưu Trọng Lư (Nàng Công Chúa Huế) đă biệt
tâm vào sự lăng quên của quần chúng, c̣n nhắc đến
họa chăng là những người nghiên cứu lịch
sử văn chương.
Truyện ngắn thắng
- hay cầm cự lâu dài - được sự gạn lọc
của thời gian cần phải có điều kiện
nào? Nói cách khác, thế nào là một truyện ngắn hay
đúng nghĩa?
Nếu đi từ vấn
đề tổng quát có tính chất mỹ học HAY là ǵ, thế
nào th́ mới được gọi là HAY, chắc chắn
sẽ dẫn đến sự bất đồng ư kiến
của nhiều người. Nhưng khởi từ một
khái niệm cụ thể thế nào là một truyện ngắn
hay để đi đến những tiêu chuẫn cụ
thể, sự bất đồng sẽ ít đi. Điều
khó khăn là những tiêu chuẩn được
đưa ra đó không phải ai ai cũng chấp nhận.
Xác định những yếu tính của một truyện
ngắn hay do vậy phần nào mang tính cách chủ quan dựa
trên những suy ngẫm và kinh nghiệm cá nhân. Khuôn vàng
thước ngọc để mọi người đặt
truyện ngắn lên đấy rồi phán xét, định
giá là một điều không thể nào t́m được sự
đồng t́nh của nhiều nguời.
Một nhà thơ trẻ
nói với tôi: "Đứng
trước một bài thơ, truyện ngắn hay, người
đọc khó đồng ư nhưng đứng trước
một bài thơ, truyện ngắn dở, người
đọc dễ dàng đồng ư". Điều này
cũng dễ hiểu. Có quá ít cách để làm cho điều
ǵ, vật ǵ trở nên tốt hơn, hay hơn, được
trầm trồ ngợi khen hơn, nhưng có cả trăm
ngàn cách để làm cho nó dở đi. Nhưng dựa vào
đâu để xác quyết hay dở? Tiêu chuẩn nào? Nhiều
độc giả như đă có sẵn trong trí một vài
khái niệm - nhưng không rơ tàng lắm - thế nào là một
truyện ngắn hay, do đó khi đọc truyện nếu
thấy phù hợp với những yếu tính đó, ông ta
cho rằng truyện đó hay, trái lại không thấy những
yếu tố đó, ông cho rằng truyện đó dở.
Ngược lại
cũng có rất nhiều khái niệm về những khuyết
điểm tạo nên truyện ngắn dở. Truyện
nào mắc vào lỗi lầm đó th́ bị kết luận
dở. Là người đọc thuần túy, độc giả
không cần phải suy nghĩ để nắm bắt lấy
những khái niệm hay khuyết điểm mơ hồ
làm tiêu chuẩn đó. Họ không cần chỉ danh những
đặc tính hay/dở
đă có sẵn trong trí (nhiều khi họ không biết)
được tạo thành theo thời gian và kiến thức
thủ đắc. Như đă nói, v́ tính cách tương
đối của vấn đề - ở trong bộ môn
nhân văn - tất cả những đặc tính để
tạo thành cái hay dở điều tùy thuộc khẩu vị
thưởng thức (ư thức, tâm lư, tính t́nh, học lực...)
của từng người. Các nhà biên tập truyện ngắn
đều đồng ư như vậy. Clifton Fadinam (The World
of the Short Stories) là những thí dụ dễ thấy nhất,
biểu lộ trong sự lựa chọn của họ
đă đành mà c̣n cả ở sự thú nhận của họ
nữa.
Ta đă thấy các
nhà viết truyện ngắn đồng ư một điểm
chung là truyện ngắn có tính chất "soi sáng tập trung" chớ không phải là một
chuỗi chuyện này nọ xảy ra tiếp nối hay
không tiếp nối mà được nhà văn ghi nhận;
vậy th́ muốn là truyện ngắn hay điều tiên
quyết là đề tài phải
quay quanh một điểm chánh: có thể tỉ mỉ
chi tiết trong các ngơ ngách của điểm chánh, nhưng
không được tỏ ra quá đáng nhiều mặt,
không được chi ly quá trong các nhánh của truyện
để đồng thời tạo nhiều điểm
chánh quá khác biệt nhau trong một truyện tạo thành một
sự mông lung người
đọc không hiểu rồi đây ḿnh sẽ được dẫn đến
đâu (xem truyện Bóng Đêm
Cuối Cùng của Phan thi Trọng Tuyến). Hăy để
tính chất đa trọng tâm, đa trọng điểm lại
cho truyện dài.
Người viết
phải viết như vậy, cô đọng, chủ điểm;
và người đọc cũng ưa thích vậy, nắm
bắt được nội dung ư nghĩa. Truyện ngắn
là đứa con của truyện dài nên lúc mới tượng
h́nh nó có tính chất mông lung của truyện dài, nhưng
không phải v́ vậy mà nó không tiến tới một h́nh
thức riêng, ngoài h́nh thức ngắn, dài.
Ở Anh Quốc các
truyện ngắn thời mới phôi thai thường có
h́nh thức một truyện dài ngưng nửa chừng, một
truyện dài hụt hơi, tính chất này cũng thấy ở
Mỹ nên Edgar Allen Poe mới đưa ra những tính chất
phải có của truyện ngắn, đó là sự cô đọng
và sự tṛn trịa của một câu chuyện, một câu
chuyện tự nó đầy đủ mà không dư, và từ
chuẩn điểm đó ông này cùng với William Hawthorne
đă chuyển biến truyện ngắn Mỹ từ một
thứ được viết để lấp đầy
các tạp chí b́nh dân đă trở thành một h́nh thức, một
thể loại văn chương có giá trị. Sau một
trăm năm ra đời, truyện ngắn đă thật
sự đi vào con đường của nó, tách rời hẳn
với truyện dài, tạo một thể loại cá biệt.
Nhiều nhà văn phát biểu khôi hài nhưng rất
đúng "truyện ngắn
không phải là một truyện dài viết ngắn hay rút ngắn"
v́ vậy khi mang tính cách lê thê truyện ngắn sẽ không
là một truyện ngắn hay. Truyện ngắn hay nói cho
cùng, phải có sự phong phú về nội dung, có sự ẩn
áo của một bài thơ Đường tuyệt diệu,
càng đọc càng thấm, càng nghĩ càng khám phá thêm những
ư nghĩa ẩn tàng...
Xét cho cùng th́ lư do viết
về phía người viết là để thỏa măn nhu cầu
kể chuyện. Đời sống chúng ta vốn dĩ là
một câu chuyện dài nếu chúng ta biết tỉa ngọn
cắt ngành th́ sẽ thu lượm được biết
bao là truyện ngắn. Chúng ta luôn luôn thấy ḿnh cần kể
lại cho người khác nghe chuyện của ḿnh, chuyện
ḿnh thấy, chuyện ḿnh nghĩ ra. Đó là công tác viết
truyện ngắn bằng miệng. Nhưng rồi phải
dùng chữ viết để truyền bá và bảo tồn
cái chuyện của ḿnh. Sang h́nh thức này, chuyện có luật
lệ, qui tắc của nó nhưng không thoát khỏi h́nh thức
ban đầu là một chuyện
kể, nghĩa là có một câu chuyện để nói ra,
nói với người khác. Những tác giả không phải
không có lư do khi đặt tựa truyện của ḿnh bằng
những chữ có dính dáng tới chuyện. Phạm Duy Tốn
có "Câu chuyện Một Tối
Tân Hôn", Thế Lữ có "Một Chuyện Ngoại T́nh", "Câu Chuyện Trên Tàu Thủy"
(cùng ở trong tập Bên Đường Thiên Lôi - 1936) Isak
Dinesen có "Câu Chuyện Của
Một Thủy Thủ Trẻ", Nathaniel Hawthorne
có"Câu Chuyện Kể lại
Lần Nữa" (Twice Told Tale), James Joyce có "Trường Hợp Thương
Tâm" (Painful Case) (Mà James Joyce trong truyện nào lại
chẳng là truyện kể?). Kể chuyện là thói quên
chung của con người. Chúng ta luôn luôn có điều ǵ
để kể và chúng ta thích nghe những điều
được kể, lúc nhỏ truyện cổ tích, lớn
hơn một chút, truyện ma, lớn hơn, truyện
t́nh, rồi chuyện thế sự nhân sinh. Nhân loại kể
nhau nghe chuyện bằng lời, bằng chữ khắc
vào đá trước khi biết cách ghi lên giấy. Ở
Trung Quốc, thời Trung Cổ có những nghệ nhân sống
bằng nghề kể chuyện. Ở Ả Rập, c̣n
truyền lại tác phẩm của một cô gái dùng thuật
kể của ḿnh mà cứu được biết bao
người con gái khỏi chết oan v́ sự tức giận
của một ông vua.
Nhưng đem những
điều kể bằng miệng diễn lại bằng
chữ viết, kể sao ghi lại như vậy, không có
cái nghệ thuật riêng của chữ nghĩa, của chuyện,
không có sự mô tả kỹ lưỡng về nhân vật
mà chỉ tạo nên những nhân dáng h́nh que (stick figures) th́
ta sẽ có "truyện Tàu",
"truyện 1001 đêm”),
hay tiến bộ hơn chút nữa, truyện kiếm hiệp
Kim Dung, truyện t́nh Quỳnh Dao. Các loại này vẫn
được ưa thích v́ sự kiện, v́ cố sự,
v́ t́nh tiết chứa đựng trong đó chứ không có
cái nghệ thuật của chữ nghĩa (chữ, câu, nhạc
điệu...) không có ư nghĩ thâm thúy của câu chuyện,
của lời văn.
Nhiều người
sẽ viện dẫn lư do này nọ để nói truyện
Kim Dung có ư nghĩa nên ngự trị cả vùng Đông Nam Á,
tiểu thuyết Quỳnh Dao hợp ước vọng của
giai tầng trung lưu nên chiếm Hoa lục v.v... nhưng
những điều đó không liên hệ ǵ hết với
nghệ thuật của ngôn ngữ mà tác phẩm viết th́
cần phải có nghệ thuật của ngôn ngữ.
Người ta gọi là chữ đắc địa trong
một câu, một câu xuất thần trong một bài, một
bài kết cấu tân kỳ của tác giả. Truyện dài
dở c̣n có cơ được nhắc tới, được
dùng làm cảm hứng cho các sáng tác khác. (Ở Việt Nam là
các loại tuồng rút từ truyện Tàu, truyện
"1001 đêm", truyện chưởng. Ở Đài
Loan, Hồng Kông, là các phim Video chưởng Kim Dung, t́nh Quỳnh
Dao.) Nhưng chắc chắn truyện ngắn dở sẽ
bị lăng quên, sẽ bị mất hút vào đám đông vô
vàng truyện đă lấp đầy trang giấy các tạp
chí b́nh dân. Tại sao? Truyện ngắn dở dễ kể
lại, dễ tóm lược và mau chóng trở thành một
chuyện đời, một cố sự, chuyện đầu
bàn cuối xóm mà ai cũng có thể kể, có thể nói.
Truyện ngắn dở ngoài cốt truyện không c̣n cái
tinh túy nào khác.
Cốt chuyện chỉ
là xương da - phần quan trọng khó thấy ở bên
trong truyện ngắn mới quan trọng, mới là cái phần
hồn của truyện. Truyện ngắn hay v́ vậy không thể kể lại, hoặc
khó kể v́ phần cốt
lơi vẫn c̣n bàng bạc trong truyện sau khi cốt truyện
được tách ra. Truyện "Rừng Mắm" của B́nh Nguyên Lộc nổi
tiếng v́ câu chuyện, v́ cái ư nghĩa lót đường
của các thế hệ trước mà c̣n gợi một sự
lâng lâng cảm hoài cho người đọc về những
lời "đối-đáp-cho-có-chuyện" mà
không-có-ǵ-để- nói của thằng Lộc và cô gái mà nó
gặp trong rừng. Truyện "Miên Trường Phía Sau" của nhà Văn Do
Thái Agnon được dịch đăng ở tạp chí
Văn ngoài câu chuyện ta c̣n cảm nhận sự bồn
chồn, sự quyết tâm để nắm bắt một
điều cần biết của một học giả.
Truyện viết dở cũng một cốt chuyện
đó, nhưng không cống hiến cho người đọc
được cái không khí bị thúc bách t́m biết như vậy.
Truyện "Hầm Rượu" của
Edgar Allen Poe cho thấy về quyết tâm trả thù đến
hững hờ trước cái chết của kẻ thù, qua
những câu nói của nhân vật ta thấy sự xếp
đặt của người trả thù và sự vô tâm của
nạn nhân. Cái hay của truyện nằm trong nghệ thuật
tạo nhân dáng của nhân vật. Truyện "Cố Sự Ở Đê Uyên Kiều"
(An Occurance at Owl Creek Bridge) của Ambrose Bierce cho thấy cái
không khí thiết tha với cuốc sống, tiếc nuối
cố bám vào từng giây phút c̣n lại cuộc đời của
một tử tội trước giờ thọ h́nh. Truyện
"Người Đàn Bà Ngoại
T́nh" của Albert Camus kể chuyện một người
đàn bà đi du lịch với chồng, đêm đến
người chồng ngủ, bà ta lẻn ra ngoài ngắm
sao, suy nghĩ mông lung rồi trở vô, ông chồng vẫn
ngủ say. Các nhà nghiên cứu văn học đều công
nhận đây là truyện ngắn hay. Cái hay nằm trong trạng
thái và sự suy tưởng của người đàn bà mà
chúng ta không thể kể lại hết ư. Tính chất
có-điều-ǵ-đó-ở-ngoài-câu-chuyện thuộc về
nghệ thuật viết chuyện, sẽ dẫn đến
vô vàn vấn đề căn bản tuy các sách vở
văn chương học đường đă nói đến
nhiều (h́nh thức, cấu tạo, câu văn, kết ư,
xây dựng nhân vật) vẫn không thể giải thích hết
được các thắc mắc của người muốn
phiêu lưu vào địa hạt văn chương. Ta phải
công nhận một cách tiên thiên rằng con người luôn
luôn bị tù túng bởi giới hạn của ḿnh trong hoàn
cảnh xă hội và cuộc đời. Trong thâm tâm ai
cũng muốn thoát ra, ngao du, thám hiểm hưởng thụ,
hay thực hiện những điều ǵ đó mà với
cuộc đời thực tế trước mặt họ
không làm được. Truyện ngắn hay đáp
được điều ước vọng muốn bùng
vỡ đó của người đọc, giúp họ thoát
ra khỏi đời hiện tại, tham dự vào cuộc
phiêu lưu tưởng tượng bằng cách ḥa nhập
vào đời sống của nhân vật.
Ngày xa xưa cổ
tích thường có truyện Hoàng tử cưới cô gái
nghèo khổ (hay ngược lại) kiểu Chử Đồng
Tử và Tiên Dung, Tú Uyên và Giáng Kiều. Gần đây thời
Tự Lực Văn Đoàn là các chuyện t́nh của các cậu
sinh viên Hà Nội với các cô gái quê lúc về nghĩ hè. Ở
miền Nam khoảng sau 1950 là các cô gái quê nghèo khổ lên tỉnh
gặp người t́nh công tử con nhà giàu. Những đề
tài đó giúp người đọc thoát khỏi cảnh giới
thực tế mà ḿnh muốn phá vỡ ra để có một
cuộc đời khác hơn, phù hợp với ước
vọng của ḿnh hơn. Các truyện ngắn kể chuyện
kháng chiến, tranh đấu chống thực dân Pháp xuất
hiện ở miền Nam khoảng 1949- 1950 khiến người
đọc hừng chí thoát ly đi chống thực dân th́
ít mà tạo cho họ cái cảm giác chính ḿnh tham dự vào sự
kiện cầm súng chống kẻ thù th́ nhiều.
Các truyện trong Liêu Trai Chí Dị được
thích một phần v́ con người ta được
phiêu lưu t́nh ái với hồ nữ xinh đẹp,
thư sinh hay chữ, thỏa măn ước vọng của
phái tính nam nữ. Đi xa hơn, loại phim Platoon cũng
là thử cố đánh mạnh vào thị hiếu muốn
tham dự vào cuộc phiêu lưu tưởng tượng của
khán giả. Sự phiêu lưu đó nh́n dưới khía cạnh
khác được coi như vai tṛ thưởng thức của
văn chương mà người không đọc sách không
thể nào được hưởng.
Thỏa măn khía cạnh
thưởng thức, truyện ngắn chỉ được
ưa thích đọc, say mê đọc bởi một số đông độc
giả nhưng chưa phải đương nhiên là truyện
hay, bởi vậy mới có sự kiện best-seller book
không được coi là tác phẩm văn chương
đúng nghĩa mà được gọi là văn chương của đám đông trong một
giai đoạn nào đó- Dương Hà, Dương Trữ
La, Lê văn Trương trước đây là thí dụ.
Văn chương của đám đông có khuynh hướng
được để ư nhiều hơn khi được
đem giảng dạy tại một số đại học
thật lớn ở Mỹ, nhưng vẫn c̣n được
nh́n bằng cặp mắt trắng bởi đại
đa số nhà nghiên cứu, phê b́nh. Nhà văn rất dễ
bị hấp dẫn bởi lối viết văn
chương của đám đông và nếu không cưỡng
nổi có lúc nhà văn sẽ làm trái lại những ư hướng
ban đầu khi bước vào nghề nghiệp.
Ngoài nhu cầu thưởng
thức, con người c̣n có nhu cầu thỏa măn sự
t́m hiểu để biết về chính đời sống
của con người. Truyện ngắn phải đem
đến cho người đọc một kiến thức
nào đó về cuộc đời, làm cho tinh nhuệ, bén nhậy
cái ư thức về cuộc sống.
Truyện phải giải
thích cho họ một khía cạnh nào đó về cuộc
đời ở mặt hành động, xử thế, tâm
lư, phản ứng, thái độ. Các mặt này có khi
được tác giả diễn tả riêng rẽ
nhưng thường là pha trộn nhau và đem đến
cho người đọc một sự thống khoái rằng
ḿnh thấy được, biết được một
điều lạ.
Truyện Sợi Tóc của Thạch Lam
cho thấy con người bị đu đưa giữa
hai hành động xấu tốt, thiện ác, khoảng cách
giữa một hành động xấu với một hành
động b́nh thường rất nhỏ. Truyện Tiếng Thầm Quê Mẹ của
Nguyễn Văn Sâm cho ta thấy lời kêu gọi văng vẳng
sâu kín trong ḷng của một thằng con lai về cái quê
hương của mẹ nó, về những người
đồng số phận với mẹ nó. Các chuyện về
xứ tuyết của Jack London cho thấy thái độ của
người dân Esquimo trước cái chết của tuổi
già, trước những điều lạ mà họ không thể
tưởng tượng được. Truyện Một Đóa Hồng Cho Emily
của W. Faulkner đưa cho ta thấy tâm lư của một
người đàn bà kiêu kỳ, không c̣n phù hợp với
cuộc đời trước mặt nữa.
Điều khao khác hiểu
biết của người đọc sách th́ vô cùng và phong
phú ở thể loại. Có thứ cụ thể (sự tàn
ác của cộng sản, đời sống ở các vùng
xa lạ với ta, nếp sống xưa của người
dân miền Nam, đời sống ở trại tỵ nạn,
trong bệnh viện...) có thứ trừu tượng (tánh
khí của phụ nữ, thái độ của đàn ông
trước một hoàn cảnh, ḷng ái quốc, ư chí hy sinh,
ḷng thù hận, sự bao dung, nỗi chán chường, trạng
thái bẽ bàng của người tỵ nạn, nỗi cô
đơn của người già...) có thứ thuộc về
một trạng thái tâm lư nghĩa là một tâm trạng ngắn
về một thái độ (tâm trạng của một
người thầy giáo mất nghề ở Mỹ, tâm trạng
người gặp lại người t́nh cũ..).
Khởi thủy của
truyện ngắn, người đọc thích hiểu biết
về điều cụ thể nên truyện ngắn
thường là mô tả con người thiên nhiên và phản
ứng của con người trước một hoàn cảnh.
Đó là những hoạt động thể chất và những
xung đột ở bên ngoài con người.
Thế kỷ XIX với
sự lớn mạnh của khoa học về tâm lư và phân
tâm, người viết đi vào những vấn đề
trừu tượng rồi đi vào những sự phân
tích bên trong con người, những phút giây, những xung
đột trong nội tâm, tŕnh bày cho thấy cái tâm trí, tâm hồn
của nhân vật mà nhà văn Thế Lữ gọi là giải
phẫu tâm lư. Các truyên ngắn loại này xuất hiện
càng lúc càng nhiều tạo nên trường phái cổ điển.
Trường phái mới này dẫn đầu với Leo
Tolstoi, Stephen Crane, James Joyce, John Steinbeck, Edith Wharton, Joyce Carol
Oates, đă tạo nên một nhu cầu mới trong sự
thưởng thức truyện ngắn và tạo ra một
cách viết truyện ngắn mà người đọc nếu
đọc mau, đọc nhẩy cố nắm bắt
riêng câu chuyện không thôi sẽ mất đi những
đoạn có ư nghĩa. Sự tranh chấp này cũng gay gắt
như sự tranh chấp thơ mới - thơ cũ
trước đây, sự thắng bại thấy rơ ràng
trong tương lai, nhưng c̣n cần một thời gian nữa
trường phái cổ điển mới chịu nhường
bước.
Đáp ứng hai mặt
đ̣i hỏi thưởng thức và nhu cầu thưởng
thức với nhu cầu t́m hiểu của con người,
truyện ngắn cùng lúc diễn tả một điều
ǵ đặc biệt cụ thể, có tính cách cá biệt có
một không hai của cốt truyện đồng thời
mô tả một điều có tính cách tổng quát, trừu
tượng về cuộc đời, về nhân sinh.
Truyện ngắn
không tự mâu thuẫn khi vừa có tính riêng biệt vừa
có tính tổng quát. Sự đặt thù khiến người
đọc thích thú theo dơi câu chuyện, để nhớ và
có cảm tưởng ḿnh thủ đắc thêm một
điều ǵ đó mới lạ, sự chung chung
đưa đến sự đồng ư của độc
giả về diễn biến của sự t́nh, cho họ
khái niệm rằng chuyện nó phải xảy ra như vậy...
Một tác giả có
tài có thể sản xuất hàng loạt truyện ngắn
hay bằng cách ḥa hợp một cách tinh tế giữa hai yếu
tố đối nghịch nhau đặc biệt và tổng
quát nói trên, Bret Harte của thời t́m vàng Viễn Tây là một
thí dụ hùng hồn. Bret Harte nổi tiếng bằng một
truyện ngắn "The Luck of
Roaring Camp" được cả nước Mỹ
biết tiếng. Truyện của ông in bằng những ấn
bản đặc biệt có h́nh vẽ đóng gáy mạ
vàng cầu kỳ để trong pḥng khách của hầu hết
các gia đ́nh Mỹ thường hay đọc sách,
được in lại ở Anh, được dịch
ra tiếng các nước Âu Châu. Những chủ rạp hát
hối thúc ông viết thành tuồng các truyện phiêu lưu
miền Viễn Tây lúc mới lập quốc, ông được
mời đi khắp nơi diễn thuyết về đời
sống California... Các truyện nổi tiếng là The Luck of Roaring Camp, The Outscasts of
Poke Flat, The Tennessee's Partner đều có phần đặc
biệt riêng, điểm đặc thù này khó gặp
được ở tác giả khác; tả thực cái khắc
khổ và ngay cả điều xấu xa, bẩn thỉu,
đê tiện của đời sống của những
người t́m vàng; mô tả chi tiết sống động
ngay cả với những nhân vật phụ, làm người
đọc bị mê hoặc. Người đọc Bret
Harte thấy như ḿnh phiêu lưu vào vùng tác giả kể bằng
các chi tiết cụ thể với các nhân vật của thời
đại khai hoang, giờ không c̣n nữa (tính đặc
biệt, cụ thể). Người đọc đồng
thời cũng thấy ở tác phẩm của Bret Harte vấn
đề tổng quát muôn thuở được tŕnh bày một
cách tiềm ẩn nhưng làm ta xúc động, thấm
thía, đó là một phối hợp tuyệt diệu của
trách nhiệm con người trong một cộng đồng
nho nhỏ, đặc biệt.
Ngoài tính chất
đáp ứng nhu cầu thoát ly và t́m hiểu, truyện ngắn
hay c̣n cần yếu tố kỹ thuật. Điều này
quá dài ḍng. Đại khái ngày nay khái niệm truyện không
có kết thúc, chỉ là một mẫu rời của cuộc
sống; nó như chính cuộc đời - không hoàn tất
- đang được ưa chuộng, khiến cho quan niệm
cổ điển truyện được viết theo nhịp
ba mở đầu - khai triển - kết thúc h́nh như
đang ở trong giai đoạn trở thành bà già c̣m cơi, cỗ
lỗ.
Truyện ngắn hay
tạo bởi nhiều yếu tố đặc biệt
khiến cho có sự kiện nghịch lư là vô vàn nhà văn nổi
tiếng ở địa hạt truyện dài lại thất
bại ở địa hạt truyện ngắn. Có nhà
văn cả đời viết hàng trăm truyện
nhưng tiếc thay gom lại truyện hay ta không in đủ
một tập cho có bề thế (B́nh Nguyên Lộc) có
người viết báo này báo kia mang tiếng là nhà văn
nhưng viết măi chưa được cái truyện ngắn
hay.... Nếu nắm bắt được những yếu
tính của truyện ngắn, nhà văn thất bại trong
truyện dài lại thành công ở mặt truyện ngắn
(Mai Thảo, Kipling, Cheknov, D.H.Lawrence).
Nhưng tại sao lại
truyện ngắn chớ? Văn chương c̣n biết bao
nhiêu loại khác; truyện dài, thơ, kịch, tùy bút, kư,
biên khảo, tạp ghi... Vâng, trong văn chương ở
Mỹ hiện tại th́ truyện ngắn không được
ưa chuộng lắm, tập san SSI (Short Story International) mỗi
năm ra sáu số để giới thiệu các truyện
ngắn hay của thế giới cho độc giả Mỹ,
mà sống èo uột rồi h́nh như đă đ́nh bản.
Nhưng đối với Việt Nam th́ truyện ngắn
là cửa ngơ rất quan trọng; hầu hết nhà văn
đều bắt đầu bằng con đường
này qua các tạp chí văn học chuyên đăng truyện
ngắn, thơ và h́nh như không khuyến khích những thể
loại khác.
Nhóm chủ
trương tập san SSI nói trên khi kể lư do chủ
trương có đưa ra một câu quan trọng tôi xin
dùng để kết luận bài này:" Truyện ngắn
quốc tế là phương tiện để dân tộc
các xứ hiểu nhau hơn nhờ cái huyền lực
(power and magic) của truyện ngắn do các nhà văn hiện
đại viết ra".
Việt Nam tự do
muốn được dân tộc các nước hiểu
ḿnh hơn cần phải có nhiều truyện ngắn hay,
không phải kiểu truyện "Con Gà Trống" của tác giả Tạo Kim Hai một
nhà văn Việt Nam không ai biết.
Kết thúc bài nầy,
tôi muốn nói rằng truyện ngắn như một thiếu
nữ, khó phân tích cái đẹp của họ, có thể khó
hiểu nữa là khác, nhưng chắc chắn ai cũng biết
thế nào là một phụ nữ xấu, vô duyên. Và xin
đừng ai đưa một người xấu lên
để nói đấy là người đẹp của
dân Việt chúng ta như trường hợp "Con Gà Trống" nói ở
trên.
San Antonio, Texas (1982)
*Tao Kim Hai -- The Cock, được chọn là truyện
ngắn hay của Annam đăng trong Tuyển tập các
truyện ngắn hay thế giới -- Crow Puplisher, 1947 trang
845.